Quốc hội chốt tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc đủ 15 năm trở lên được hưởng lương hưu
| Tăng lương phải đồng hành với kiềm chế lạm phát, trượt giá Quốc hội thông qua Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) |
Sáng 29/6, với 454 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành, đạt 93,42%, Quốc hội đã thông qua Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi), với nhiều điểm mới quan trọng.
Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội của Quốc hội Nguyễn Thúy Anh trình bày Báo cáo tiếp thu, giải trình Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi), cho biết, về đối tượng và điều kiện hưởng lương hưu, được quy định tại Điều 64 dự thảo Luật.
Theo đó, đối tượng quy định tại các điểm a, b, c, g, h, i, k, l, m, n Khoản 1 và Khoản 2 Điều 2 của Luật Bảo hiểm xã hội, khi nghỉ việc có thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc từ đủ 15 năm trở lên thì được hưởng lương hưu nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định tại Khoản 2 Điều 169 của Bộ luật Lao động.
b) Đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định tại Khoản 3 Điều 169 của Bộ luật Lao động và có tổng thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc từ đủ 15 năm trở lên khi làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm do Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành hoặc làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước ngày 1 tháng 1 năm 2021;
![]() |
| Các đại biểu bấm nút biểu quyết thông qua dự án Luật. Ảnh: Quốc hội. |
c) Có tuổi thấp hơn tối đa 10 tuổi so với tuổi quy định tại Khoản 2 Điều 169 của Bộ luật Lao động và có từ đủ 15 năm trở lên làm công việc khai thác than trong hầm lò theo quy định của Chính phủ;
d) Người bị nhiễm HIV/AIDS do tai nạn rủi ro nghề nghiệp trong khi thực hiện nhiệm vụ được giao.
Đối tượng quy định tại các điểm d, đ và e khoản 1 Điều 2 của Luật Bảo hiểm xã hội nghỉ việc có thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc từ đủ 15 năm trở lên được hưởng lương hưu khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Có tuổi thấp hơn tối đa 5 tuổi so với tuổi quy định tại Khoản 2 Điều 169 của Bộ luật Lao động, trừ trường hợp Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, Luật Công an nhân dân, Luật Cơ yếu, Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng có quy định khác;
b) Có tuổi thấp hơn tối đa 10 tuổi so với tuổi quy định tại Khoản 2 Điều 169 của Bộ luật Lao động và có tổng thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc từ đủ 15 năm trở lên khi làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm do Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành hoặc làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước ngày 1 tháng 1 năm 2021;
c) Người bị nhiễm HIV/AIDS do tai nạn rủi ro nghề nghiệp trong khi thực hiện nhiệm vụ được giao.
3. Chính phủ quy định việc hưởng lương hưu đối với trường hợp không xác định được ngày, tháng sinh hoặc mất hồ sơ và các trường hợp đặc biệt khác.
Về ý kiến đề nghị thay đổi cách tính mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội làm căn cứ tính lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, cách tính mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội để tính lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần yếu tố có tính chất quyết định đối với công thức tính lương hưu, tác động trực tiếp đến quyền lợi của người tham gia và khả năng cân đối Quỹ Bảo hiểm xã hội.
Việc thay đổi cách tính mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội làm căn cứ tính lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần cần được đánh giá toàn diện, tổng thể. Trong khi chưa đánh giá được tác động của việc thay đổi, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin được giữ như dự thảo Luật.
Theo số liệu của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, tại thời điểm năm 2022, thời gian đóng bảo hiểm xã hội bình quân của người lao động là 29,93 năm (trong đó nam 31,38 năm, nữ 28,44 năm), thời gian hưởng lương hưu bình quân là 26,04 năm (trong đó nam 25,3 năm; nữ 27,7 năm).
Có thể bạn quan tâm
Nên xem
Bí thư Thành ủy Hà Nội Nguyễn Duy Ngọc kiểm tra tiến độ thi công các công trình, dự án trên địa bàn Thành phố
Đề xuất bỏ sổ kiểm định xe cơ giới, xe máy chuyên dùng
Giấc mơ an cư trong vòng xoáy giá nhà
Tiếp tục nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân
Không gian xanh hòa vào nhịp sống Thủ đô
Hà Nội hướng dẫn chi tiết quy trình ứng cử HĐND Thành phố, nhiệm kỳ 2026 - 2031
Điểm tựa thúc đẩy chuyển đổi số trong dạy và học
Tin khác
Chính phủ đồng ý phương án nghỉ Tết Dương lịch 4 ngày
Tin mới 25/12/2025 13:57
Sẽ trao danh hiệu Anh hùng cho một số điển hình kinh tế tiêu biểu tại Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ XI
Tin mới 24/12/2025 13:14
Hơn 2.200 đại biểu dự Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ XI
Tin mới 24/12/2025 13:12
Tập trung khắc phục cơ sở hạ tầng, khôi phục sản xuất kinh doanh sau bão lũ
Tin mới 24/12/2025 06:15
Lựa chọn phương thức đầu tư tối ưu cho đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam
Tin mới 24/12/2025 06:14
Toàn văn Thông cáo báo chí Hội nghị lần thứ 15, BCH Trung ương Đảng khóa XIII
Tin mới 23/12/2025 19:02
Thông cáo báo chí ngày làm việc thứ hai và bế mạc Hội nghị Trung ương 15 khoá XIII
Tin mới 23/12/2025 16:22
Khai mạc ngày hội "Vì biển đảo xanh năm 2025"
Tin mới 23/12/2025 11:59
Toàn văn phát biểu bế mạc Hội nghị lần thứ 15, BCH Trung ương Đảng khóa XIII của Tổng Bí thư Tô Lâm
Tin mới 23/12/2025 11:22
Thành phố Hà Nội có 11 đơn vị bầu cử, được bầu 32 đại biểu Quốc hội
Tin mới 22/12/2025 18:10
