Bài 2: Những người kể sử làng
| Người kể chuyện mùa thu lịch sử Tọa đàm "Ký ức 80 năm - Mùa thu lịch sử": Lan tỏa niềm tự hào và tình yêu Hà Nội Ký ức không bao giờ phai trong ngày độc lập |
Họ là những “người kể sử làng” - những nhân chứng sống của lịch sử, của ký ức cộng đồng. Trong lời kể của họ, hiện lên những mùa hội tưng bừng trống chiêng, những năm tháng gian khó mà nghĩa tình, cùng những câu chuyện thấm đẫm tình yêu quê hương đất nước. Không chỉ lưu giữ ký ức cho làng, cho phố, họ còn truyền lửa cho thế hệ hôm nay, nhắc nhở mỗi người sống đẹp hơn, biết tri ân quá khứ và trân trọng những giá trị bền sâu của cộng đồng.
Những ký ức về Hà thành xưa cũ
Tôi từng có đôi lần gặp PGS.TS Hà Đình Đức. Tên tuổi của ông gắn liền với “cụ” rùa ở hồ Gươm. Đận xa ngái khi gặp ông là quãng năm 2016 trong dịp đề cập đến “cụ” rùa không còn nổi lên trên hồ. Đận ấy, ông buồn mang mác. Bẵng đi ít năm, dù có trao đổi qua các cuộc trò chuyện ngắn trên điện thoại, nhưng phải mãi vừa qua, tôi mới có dịp gặp lại ông trong một hội nghị. May thay, PGS.TS Hà Đình Đức vẫn khỏe mạnh. Ở tuổi xưa nay hiếm, PGS.TS Hà Đình Đức vẫn luôn làm việc với tất cả say mê và nhiệt huyết của ngọn lửa tình yêu dành cho Hà Nội.
![]() |
| PGS.TS Hà Đình Đức từng được thành phố Hà Nội xét tặng danh hiệu “Công dân Thủ đô ưu tú” năm 2012. Ông là một trong những người có nhiều cống hiến cho Hà Nội. |
Với PGS.TS Hà Đình Đức, nhắc về ông có lẽ sẽ thật thiếu nếu không nhắc đến đóng góp trong công cuộc bảo vệ rùa hồ Gươm và văn hóa lịch sử Thủ đô. Ông chia sẻ, hồ Gươm là biểu tượng của Thủ đô. Rùa hồ Gươm là linh hồn của hồ Gươm, là báu vật, là cổ vật sống và lâu nay người dân Việt Nam vẫn tin rằng nơi đó gắn liền với truyền thuyết về hoàn gươm của vua Lê. “Cụ” rùa đã giữ gươm của vua Lê. Và dĩ nhiên, trong sâu thẳm thì đó là biểu trưng lòng yêu hoà bình của dân tộc Việt Nam.
Với những nghiên cứu không ngừng nghỉ của mình, PGS.TS Hà Đình Đức từng được thành phố Hà Nội xét tặng ông danh hiệu “Công dân Thủ đô ưu tú” năm 2012. Ngoài ra, ông còn rất nhiều bằng khen, danh hiệu cao quý khác như: Huân chương Kháng chiến hạng Ba; Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ năm 2007; Nhà nước phong tặng danh hiệu Nhà giáo Ưu tú năm 2010; đồng tác giả Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2012; nhận giải thưởng “Bùi Xuân Phái vì Tình yêu Hà Nội” năm 2011; hai lần được Hà Nội công nhận danh hiệu “Người tốt, việc tốt”; Kỷ lục Việt Nam về Người tìm hiểu, nghiên cứu và có bài viết về rùa Hồ Gươm nhiều nhất... Đó là tất thảy sự ghi nhận, đánh giá của xã hội đối với “pho sử” về Hà Nội.
Không chỉ có những nghiên cứu sâu về “cụ” rùa, PGS.TS Hà Đình Đức còn am tường không ít nét văn hóa của người Hà Nội. Ông chia sẻ, bản thân đã từng viết rất nhiều bài viết về câu chuyện “Ai là người Hà Nội?”. Theo quan điểm của ông, người Hà Nội là những người sinh sống, làm việc, gắn bó và cống hiến cho sự phát triển của Thủ đô. Một phần Hà Nội là đất kẻ chợ, là người khắp nơi tụ về, có sinh hoạt, ngôn ngữ riêng của họ. Do vậy, để phát triển và tồn tại, Hà Nội phải chấp nhận văn hóa vùng miền.
![]() |
| Ở những miền quê ngoại thành, các cao niên trong cộng đồng là sợi dây kết nối giữa quá khứ với hiện tại. |
Theo sự quan sát của ông, từ rất nhiều năm nay, một phần những người từ tỉnh ngoài đến đều theo nếp ăn nói của người Hà Nội, tròn vành, rõ tiếng, đúng chính tả. Những người ở Hà Nội lâu hơn, họ có quy tắc bất thành văn là giao thiệp một cách lịch lãm. Họ không nhún nhường, không kiêu ngạo, càng không cáu gắt, chửi mắng… Hơn hết, sống ở mảnh đất văn hiến, người dân vì thế cũng nền nã và đi theo nền nếp, lễ giáo từ nghìn xưa để lại. Ai cũng lo dạy con. Họ dạy con bắt đầu từ hiếu, rồi lễ, trung với nước, tín với bạn bè. Ngoài lối giáo dục ấy, người ta cũng học đạo đức bác ái của nhà Phật và tính thanh tao của Lão giáo.
Chung “sở thích” nghiên cứu những nét văn hóa lịch sử giống PGS.TS Hà Đình Đức, suốt nhiều năm nay nhà giáo Nguyễn Tọa ở Hạ Mỗ (nay là xã Ô Diên) đầu tư thời gian vào công việc sưu tầm, nghiên cứu, khai thác và phát huy các di sản văn hóa của quê hương, giúp thế hệ trẻ hiểu sâu sắc về những giá trị văn hóa lịch sử mà cha ông ta đã để lại trên mảnh đất ngàn năm văn hiến.
Để phục vụ nghiên cứu của mình, nhà giáo Nguyễn Tọa đã đi khắp vùng, tìm đến nhà các cụ già để hỏi chuyện và ghi chép tỉ mỉ những phong tục hay những chuyện lạ dân gian. Qua các truyền thuyết dân gian, hoành phi, câu đối, ca dao, tục ngữ, văn bia, sách cổ, ông đã tìm kiếm, ghi chép, trao đổi để tìm ra nhiều tư liệu lịch sử có giá trị. Những tư liệu giá trị như vậy được ông mang về phân tích, xâu chuỗi và đối chứng lại trong những câu chuyện lịch sử, hệ thống văn hóa. Ông quan niệm rằng, để giải mã được những điển cố văn hóa thì cần phải tìm tòi từ nhiều nguồn khác nhau. Có những nguồn phải tự học, tự dịch mới vỡ ra được.
Với vốn kiến thức sâu rộng, qua lời kể của “pho sử” làng Hạ Mỗ, câu chuyện về ngôi làng cổ xứ Đoài, về kinh đô Vạn Xuân xưa, về những dòng lịch sử hay về các danh nhân văn hóa nơi đây như được sống lại một lần nữa, hiển hiện ngay trước mắt mọi người. Với những luận cứ xác đáng, thuyết phục, năm 1990, ông khởi thảo hồ sơ xin xếp hạng 3 di tích trên địa bàn xã Hạ Mỗ là đình Vạn Xuân, đền Văn Hiến và chùa Hải Giác. Đến tháng 10/1991, cả 3 di tích đều được xếp hạng Di tích Lịch sử văn hóa cấp Quốc quốc gia. Từ kết quả trên, năm 2014 Ủy ban nhân dân xã Hạ Mỗ đã giao cho ông tiếp tục lập hồ sơ xin xếp hạng 3 di tích còn lại là đền Chính Khí, đền Tri Chỉ và miếu Hàm Rồng.
Ngoài những di tích nói trên, nhà giáo Nguyễn Tọa cũng tích cực sưu tầm, nghiên cứu, phát hiện, khôi phục các điểm di tích lịch sử văn hóa của huyện Đan Phượng (cũ) như: nhà Trò, Văn Miếu, thành cổ Ô Diên… Bên cạnh đó, ông còn viết bài giới thiệu các di tích của làng in trong cuốn “Đan Phượng di tích lịch sử văn hóa và cách mạng” do Ban Quản lý di tích và Danh thắng Hà Nội cùng huyện Đan Phượng tổ chức biên soạn, dịch bộ sách cổ mộc bản “Cổ kim truyền lục”, đóng góp tài liệu cho Thư viện Quốc gia Việt Nam, Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
![]() |
| Những cựu chiến binh giáo dục truyền thống cách mạng tới thế hệ trẻ. |
Ông cũng là một tuyên truyền viên tích cực trong các phong trào quần chúng của xã, huyện. Để phát huy giá trị di sản, ông cùng chính quyền và nhân dân địa phương tiến hành từng bước tôn tạo, bảo vệ và phát huy giá trị các di tích.
Giữ lại sử làng qua lời ca, tiếng hát
Truyền giữ lịch sử của làng quê qua việc lưu giữ lời ca, tiếng hát là cách thức mà không ít những người cao tuổi còn thực hành ở thời điểm hiện tại. Trường hợp Nghệ nhân ưu tú Nguyễn Thị Vẫy ở xã Khánh Hà, huyện Thường Tín (cũ) là ví dụ. Ở Khánh Hà, nghệ nhân Nguyễn Thị Vẫy tựa như một kho “tư liệu sống” về hát Trống quân - thứ đặc sản riêng có của Khánh Hà.
Theo lời nghệ nhân, Nguyễn Thị Vẫy, điệu Trống quân của Khánh Hà ra đời có lẽ xuất phát do vùng đất này nằm ven bờ sông Nhuệ. Điệu hát ra đời trong chính trong những đêm trăng thanh gió mát khi người già thì dùng để giải trí, người trẻ thì dùng để chọn nhân duyên. Chẳng thế mà, trong những nhịp gieo vần của điệu hát người ta vẫn rủ rỉ: “Thuyền ai (rằng) đi ngược về xuôi/Có về (thời) Đan Nhiễm với tôi thì về/Đan Nhiễm có bóng cây tre/Có sông (thời) tắm mát, có nghề chẻ nan…”
Nghệ nhân Nguyễn Thị Vẫy cũng quả quyết, điệu hát dù không rõ khởi tích ra sao nhưng điểm nhất quán là tính giáo dục cao trong cách thức ứng xử, ca ngợi cái đẹp, phê phán cái xấu. Hơn hết, điều đẹp đẽ mà hát Trống quân mang lại là sự thoải mái trong tâm hồn khi góp phần giải tỏa những lo toan, nhọc nhằn trong cuộc sống, sản xuất của cá nhân nói riêng và cộng đồng nói chung.
Tiếp tục chạy xe men theo dòng Nhuệ Giang, tôi tìm về làng Đa Chất xã Đại Xuyên. Đây là ngôi làng kỳ lạ còn truyền khẩu “mật ngữ” giao tiếp độc nhất vô nhị trong vùng. Ở Đa Chất, ông Nguyễn Văn Nghinh (67 tuổi) là “pho sử làng” nổi tiếng hơn cả. Điểm đặc biệt của người thủ từ đình làng Đa Chất là dù không học cao, nhưng ông có trí nhớ đến lạ kỳ khi nói về các sự kiện lịch sử của làng. Trí nhớ ấy lại được cộng hưởng với tình yêu quê hương. Với ông Nghing, tình yêu quê hương bắt nguồn từ lòng tự hào về truyền thống văn hóa của ngôi làng...
![]() |
| Ông Nguyễn Văn Nghinh là một trong số những người ít ỏi am hiểu tiếng lóng và nghề đóng cối trong làng. |
Theo lời ông kể, Đa Chất xưa từng có tên cổ là Tông Chất, mãi sau này mới đổi lại thành tên gọi như hiện tại. Trong quá khứ, làng nổi tiếng khắp xa gần với nghề đóng cối xay. Nghề thủ công này từng được khắp xa gần chuộng một thời gian dài và phải mãi đến khi có máy xay xát thì nghề mới dần lui vào dĩ vãng.
Ông Nghing nhấn mạnh, tiếng lóng và nghề đóng cối ở Đa Chất lại có sự gắn kết nhau hết sức diệu kỳ. Chẳng là, đàn ông Đa Chất chuyên làm nghề đóng cối, họ phải “lên rừng xuống biển”… để làm nghề. Mỗi chuyến đi thường kéo dài cả vài tháng, và khi ấy, tiếng lóng lại được những thợ cối truyền dạy và dùng nói với nhau. Chẳng hạn, trong quá trình hành nghề của người thợ cối, người thợ phó cả sẽ truyền lại nghề và kỹ thuật làm cối cho thợ phó hai. Dĩ nhiên, trong quá trình họ trao đổi với nhau, nhắc nhở nhau trong công việc, trong ứng xử và sinh hoạt hằng ngày thì đều dùng tiếng lóng.
![]() |
| Tại những miền quê của Hà Nội, không ít ngôi làng còn lưu giữ những giá trị văn hóa sâu dày. |
Một thầy một trò, họ dạy nhau từng chữ và nghĩa của chúng. Chẳng hạn, “bệt” sẽ được hiểu là nhà, “thít” sẽ được hiểu là ăn uống, “mận” được hiểu là nước, “choáng” là đẹp, “êm” là ngon, “thuôn” là tốt… Tiếng lóng là “đặc sản” riêng có của Đa Chất, và ông Nghing khẳng định, ai càng am hiểu nhiều thì càng có thêm những gợi mở, thêm yêu hơn mảnh đất làng quê yên bình này.
Gặp những “pho sử” như PGS.TS Hà Đình Đức, nhà giáo Nguyễn Tọa, Nghệ nhân hát trống quân Nguyễn Thị Vẫy hay ông Nguyễn Văn Nghinh… dù ở những lĩnh vực, góc nhìn và sự đóng góp khác nhau song ở họ đều có điểm chung là nhất mực yêu và gìn giữ những nét đẹp truyền thống quê hương, vun bồi những giá trị cho Hà thành. Hơn hết, họ như sợi dây gắn kết giữa quá khứ, hiện tại và tương lai, từ những trân quý ấy, giá trị và bồi lắng văn hóa của đất, của người sẽ mãi được lưu truyền đến thế hệ mai sau.
(Bài 3: Thắp sáng ngọn lửa từ thế hệ trẻ)
Có thể bạn quan tâm
Nên xem
100% Công đoàn cơ sở phường Văn Miếu - Quốc Tử Giám hoàn thành Đại hội trước thời gian quy định
Dự báo thời tiết Hà Nội ngày 20/12: Sáng sớm có sương mù nhẹ rải rác, trưa chiều giảm mây hửng nắng
Triển lãm nghệ thuật Phật giáo: Dấu ấn đồng hành cùng Thủ đô văn minh, hiện đại
Cử tri tán thành, đánh giá cao kết quả Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá XV
Con ngõ hơn dài 100m thành điểm check-in Giáng sinh hút khách tại Hà Nội
Lãi suất huy động “nóng” dần, ngân hàng tăng tốc hút tiền gửi cuối năm
Công đoàn Công ty TNHH Bán lẻ Fujimart Việt Nam tổ chức thành công Đại hội lần thứ II, nhiệm kỳ 2025 - 2030
Tin khác
Báo Lao động Thủ đô đạt giải Ba cuộc thi viết “Bảo vệ môi trường trên địa bàn thành phố Hà Nội” năm 2025
Tôi yêu Hà Nội 17/12/2025 12:50
“Chìa khóa” thúc đẩy các dự án cầu vượt sông Hồng
Tôi yêu Hà Nội 10/12/2025 14:37
Công an Hà Nội: Hàng nghìn ngày lương và nhu yếu phẩm hướng về đồng bào vùng lũ
Tôi yêu Hà Nội 26/11/2025 12:56
Chuyện những nhà giáo tâm huyết
Tôi yêu Hà Nội 26/11/2025 10:17
Xã Ba Vì lan tỏa nghĩa tình và tinh thần đoàn kết của người Việt
Tôi yêu Hà Nội 24/11/2025 16:06
Phòng Cảnh sát giao thông Hà Nội sẻ chia cùng đồng bào vùng lũ
Tôi yêu Hà Nội 24/11/2025 15:08
Công an Hà Nội phát động ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên
Tôi yêu Hà Nội 24/11/2025 15:04
Công an phường Tây Hồ góp phần lan tỏa "Nghĩa tình đồng bào"
Tôi yêu Hà Nội 23/11/2025 20:47
Phường Thanh Liệt chung tay hướng về đồng bào vùng lũ, lan tỏa tinh thần “lá lành đùm lá rách”
Tôi yêu Hà Nội 23/11/2025 19:00
Xã Đại Thanh chung sức ủng hộ đồng bào vùng lũ, lan tỏa tinh thần đoàn kết
Tôi yêu Hà Nội 23/11/2025 19:00




