Người còn trong nước, thơ mãi trong dân
Mãi soi đường cho nhân loại tiến bộ đi tới tương lai tốt đẹp hơn | |
Phố Yết Kiêu |
Nhằm ngày Lễ Vu Lan chúng tôi về thăm quê Hoàng giáp Nguyễn Thượng Hiền. Từ ngã ba Ba La (quận Hà Đông) xe rời đường số 6 rẽ trái theo quốc lộ 21B, đi chừng 23 km là tới xã Liên Bạt huyện Ứng Hòa, Hà Nội.
Nhà của cụ ở xóm Bặt Chùa và ở gần đồng làng đến nỗi chỉ với tay là chạm vào từng cánh lá lúa. Đồng xanh yên ả và quãng ngày thơ ấu sống ở quê nhà sớm nuôi dưỡng và hình thành nên tư chất thông minh cho cậu bé Nguyễn Thượng Hiền.
Ông Nguyễn Thượng Hùng (trái), cháu nội của cụ Nguyễn Thượng Hiền cùng tác giả. |
Ngôi nhà cụ ở thời xưa nay được làm Nhà thờ, là nơi cho con cháu đi về. Một ngôi nhà Việt cổ điển hình. Ông Nguyễn Thượng Hùng, người cháu gọi cụ là ông nội, năm nay đã 81 tuổi tiếp chúng tôi bằng câu chuyện kể về “các cụ nhà tôi”.
Mới hay ngôi nhà 3 gian 2 trái này do các học trò của cụ Nguyễn Thượng Phiên, thân sinh cụ Nguyễn Thượng Hiền, quyên tiền dựng lên kính tặng thày nhân dịp cụ Phiên tròn 70 tuổi, đó là năm 1898. Ông Hùng hào hứng nói thêm “Cụ nội nhà tôi được phong tước Hiệp biện đại học sĩ, cụ từng là thày dạy cho Vua Thành Thái”.
Nguyễn Thượng Hiền, một nhân cách lớn.
Tuy thành danh từ chế độ khoa bảng và lớn lên trong một gia đình thuộc diện quan lại triều đình nhà Nguyễn nhưng Nguyễn Thượng Hiền sống trong sự thanh bần nơi quê nhà. (Ngôi nhà hiện nay là của cụ Nguyễn Thượng Phiên để lại cho cụ Nguyễn Thượng Hiền chứ các cụ chịu cảnh bần hàn chuyên lo chuyện học).
Sau khi đỗ Hoàng giáp (1892) chàng trai trẻ Nguyễn Thượng Hiền được bổ làm Toản Tu ở Quốc Sử quán rồi được thăng Đốc học Ninh Bình và Nam Định. Gọi là “chức quan” song thực ra chức tước “Đốc học” thời ấy quá khiêm nhường và nhỏ thó giữa chốn quan trường đông đúc hèn nhát và bất tài.
Phố Nguyễn Thượng Hiền. Ảnh: Minh Phương |
Không mặn mà lắm với quan trường nên chỉ vài năm làm “quan” Nguyễn Thượng Hiền kết giao được với những sĩ phu yêu nước Tăng Bạt Hổ, Phan Chu trinh, Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng…Năm 1898 Nguyễn Thượng Hiền định qua Nhật để hỗ trợ phong trào Đông Du nhưng ý định đó phải tạm ngưng vì lý do gia đình.
Ở lại trong nước để vận động cách mạng và được tiếp thu tư tưởng tiến bộ cùng thái độ phê phán những lạc hậu của chế độ phong kiến đương thời đã làm bước chuyển lớn từ quan niệm “Trung quân ái quốc” sang tinh thần “Yêu nước thương dân” của Nguyễn Thượng Hiền. Nó thể hiện một sự nhất quán trong sự nghiệp cách mạng của chí sĩ Nguyễn Thượng Hiền.
Chỉ tay lên bức Cuốn thư treo trên chính điện ban thờ với bốn chữ nho nét viết phóng khoáng, ông Nguyễn Thượng Hùng cho biết “Bốn chữ đó là“vị quốc xả sinh” để nêu bật gương sáng của cụ Nguyễn Thượng Hiền. Chữ “xả sinh” ở đây có nghĩa là dám hy sinh cả cuộc đời mình cho nghĩa lớn, nó cao hơn chứ “xả thân” như ta thường thấy”.
Quả là ý nghĩa khi được biết bốn chữ ấy do giáo viên và học sinh Trường phổ thông chuyên mang tên Nguyễn Thượng Hiền của huyện Ứng Hòadâng tặng nhân dịp “Nhà thờ Nguyễn Thượng Hiền” được nhận “Bằng công nhận di tích Lịch sử - Văn Hóa” năm 2001.
Nhân đôi câu đối treo đôi bên ban thờ cũng nói lên cụ Nguyễn Thượng Hiền không chỉ là nhà cách mạng mà đó còn là một nhân cách lớn. Ông Nguyễn Thượng Hùng vừa lần tay theo từng chữ vừa đọc to “Cuồn cuộn khí hùng rõ bậc hiền tài lương đống. Đường đường kỳ vĩ sáng danh chí sĩ cô trung”. Quả là lời đánh giá về con người về sự nghiệp của Nguyễn Thượng Hiền chí tình chí lý.
Nguyễn Thượng Hiền, một nhà thơ yêu nước.
Tên của cụ Nguyễn Thượng Hiền đã được đặt tên cho đường phố ở Thủ đô Hà Nội, ở thành phố Hồ Chí Minh và ở các tỉnh thành khác. Và dù hiện chưa có thống kê đầy đủ nhưng tên của cụ còn được đặt làm tên trường học trong cả nước. |
Thời kỳ đầu Nguyễn Thượng Hiền làm thơ theo tinh thần Nho giáo nhưng rồi trước những biến cố của đất nước, biến cố trong triều chính và đặc biệt là khi Nguyễn Thượng Hiền tiếp xúc với phong trào yêu nước của các bậc chí sĩ mà cụ kết thân; nhất là khi nhạc phụ của cụ là Đại thần Tôn Thất Thuyết quyết chí phò vua Hàm Nghi chống lại người Pháp xâm lược, thì những sáng tác của Nguyễn Thượng Hiền có sự “chuyển hướng” từ lối viết đài các, ước mơ xa xôi với những câu thơ kiểu như: “Sớm mai dậy nghe chim oanh hót/ Xuân lạnh ngồi trong nhà tranh/ Cách mặt nước, ngân hà ánh nhạt/ Vào cửa sổ, mai liễu đưa mùi thơm/ Mặt trời giục việc người đời/ Non xanh khuyên khách uống rượu/ Đêm mộng thấy làng nước/ Ngàn mẫu đều cấy lúa, trồng dâu” sang lối viết có văn phong gần gũi với hiện thực, cổ súy tinh thần yêu nước thương dân và vạch mặt lũ tay sai bán nước.
“Gió cuồng một trận nổi lên/ Xô cây đại thụ đổ bên góc đồi/ Hoa còn chi chít trên chồi/ Nhụy thơm mà lỡ bỏ hoài làm gai/ Ong rừng đâu kéo tới nơi/ Hàng ngàn hàng ức tơi bời trước sau/ Leo cây hút nhụy đua nhau/ Vo ve sớm tới nghe rầu bên tai/ Cây sống chết chẳng đoái hoài/ Chỉ cần kiếm được chút lời là hơn/ No nê chất ngọc cả đoàn/ Nhìn nhau nét mặt hân hoan lạ thường” (Bài thơ này được biết là bài kể tội Hoàng Cao Khải xu nịnh giặc Pháp giết hại đồng bào)
Đọc lại những câu thơ như “Ngựa biệt rừng xưa khói bụi tung/ Cao dày ơn nước quyết đền xong/ Vá trời lấp biển dù gian khổ/ Thuyền đắm rồi tan chẳng ngại ngùng/ Áo khoác đường trường theo bóng nhạn/ Gươm thiêng đêm vẳng thét oai rồng/ Ngày nào tay trói quân Hồ lỗ/ Rót chén vui mừng với núi sông” chúng ta có thể tìm thấy ở đó hiện thực đất nước cùng diễn biến tâm tư tình cảm chân thành của tác giả - tâm hồn thi sĩ, lời lẽ thiết tha, thúc giục; ý chí chiến đấu cao, lời lẽ chặt chẽ, hùng hồn; tập trung tố cáo tội ác của bè lũ thực dân, lời lẽ đanh thép, gay gắt; miêu tả nỗi cơ cực của dân tộc, nhân dân, lời lẽ buồn da diết, thấm nỗi tủi hổ.
Hoặc như câu thơ trong bài thơ Gửi các đồng chí Đông Kinh nghĩa thục: “Thôi thôi càng nói lại càng rầu/ Mảnh áo đêm khuya thấm hạt châu/ Việc nước ai làm ra đến thế/ Cơ trời còn biết ngòng vào đâu?/ Hai bên gánh vác vai thêm nặng/ Muôn dặm xa xôi bước khó mau/ Giận biển sầu non như chẳng chuyển/ Câu thơ tín quốc để về sau”.
Sự chuyển biến trong sáng tác thơ ca như thế cho thấy: Nguyễn Thượng Hiền là một nhà nho trung ngĩa, một nhà thơ yêu nước. Cụ đã đem cả cuộc đời của mình để cống hiến cho đất nước cho dân tộc.
Cụ đã dùng thơ ca để cổ động tinh thần yêu nước trong nhân dân và khích lệ tư tưởng Duy tân. Nguyễn Thượng Hiền đã thay đổi quan niệm khi đưa ra cái nhìn mới mẻ. Tấm lòng tràn đầy niềm yêu nước thương dân của cụ đã kích thích lòng căm thù quân xâm lược mà từ đó khơi gợi tình cảm dân tộc, gắn kết dân tộc vào chung một sự nghiệp gian lao – sự nghiệp đấu tranh cách mạng dân tộc.
Nghe đâu hồi hay tin Nguyễn Thượng Hiền mất, cụ Phan Bội Châu khi ấy đang bị giam lỏng ở Bến Ngự (Huế) buồn thươngvô hạn, cụ Phan tự tay lập bàn thờ rồi nước mắt chứa chan đọc bài văn điếu do mình biên soạn. Bài văn điếu có đoạn như sau“Danh viên mãn chí chưa viên mãn”.Ý là để ca ngợi sự học hành đỗ đạt của cụ Nguyễn Thượng Hiền và tấm lòng vị quốc của cụ.
Nguyễn Thượng Hiền, một nhà giáo có tâm
Tuy thời gian là Đốc học Ninh Bình rồi Đốc học Nam Định không dài chỉ khoảng 6 năm nhưng sự nghiệp làm thày, sự nghiệp dạy chữ, dạy người của Nguyễn Thượng Hiền cũng đáng vị nể. Hôm Trường Đông Kinh nghĩa thực khai giảng năm học đầu tiên, Đỉnh thần Nguyễn Thượng Hiền được Chí sĩ Phan Bội Châu giao soạn “Bài khai học”.
Đó là một bài “diễn văn” như cách nói bây giờ nhưng lại hàm chứa rất nhiều điều răn dạy thiết thực chứ không phải thứ diễn văn khoa trương diệu vợi. Bài khai học được viết bằng chữ Nôm (chữ của người Việt) và được gọi là “Đông học thư thân ca” nghĩa là “Bài ca của học sinh Đông du”.
Cụ Hiền viết theo thể thơ song thất lục bát “Lò tạo hóa đúc gan anh kiệt/ Gặp gian nguy mới biết dạ bền/ Tha hồ ngọn sóng thao thiên/ Đông tay chèo chống thời thuyền không sao/ Kể từ lúc Nam Giao mở nước/ Hội phong vân kẻ trước người sau/ Ra tay thảo nghịch tiêm cừu/ Non sông vững nghiệp kim âu đời đời…..
Có cày cấy có phen được thóc/ Có vụn trồng có lúc nở hoa/ Ai ơi xin gắng lòng ta/ Dựng nên công nghiệp chẳng qua chữ “cần”/ Đường tiến hóa nguyên nhân ở học…Chữ nhân ái khuyên người nhớ trước/ Bạn đồng bào trong nước mới theo....”
Đọc lại những áng văn của Nguyễn Thượng Hiền và nhất là vào dịp chuẩn bị bước vào năm học mới này mới càng thấm thía câu “Đường tiến hóa nguyên nhân ở học”, lời răn dạy này chẳng khi nào xưa cũ, chẳng khi nào là không thiết thực. Đấy cũng là những lời “rút từ gan ruột” của chính nhà yêu nước Nguyễn Thượng Hiền khi cụ tha thiết mà kêu gọi mọi người hãy “chữ nhân ái khuyên người nhớ trước/ Bạn đồng bào trong nước mới theo”.
Từ những năm đầu thế kỷ hai mươi đã hình thành Phong trào Đông kinh nghĩa thực với sự ra đời Trường Đông kinh nghĩa thục ở Hà Nội. Đây là một phong trào vô cùng tiến bộ và nhiều tham vọng nhằm mục đích “tự cường hy vọng một cuộc đổi mới” trong đất nước.
Với mục đích chính là “Khai trí cho dân, phương tiện được hoạch định, mở những lớp dạy học không lấy tiền và tổ chức những cuộc diễn thuyết để trao đổi tư tưởng cùng cổ động trong dân chúng do vậy Phong trào Đông kinh nghĩa thực đã khai giảng năm học đầu tiên vào tháng 3 năm 1907 cùng những lời “gan ruột” của các vị lãnh tụ phong trào.
Nguyễn Thượng Hiền hiếu trung tín nghĩa
Nắng tháng 7 ran ran ngoài sân, ông Nguyễn Thượng Hùng mắt rân rấn lệ kể rằng: Năm 1892 sau khi đỗ Hoàng giáp Nguyễn Thượng Hiền rời xa quê nhà một thời gian khá dài. Mãi 15 năm sau, năm 1907 khi đang chuẩn bị cùng các đồng chí của mình qua hướng “Đông Du” tìm con đường cứu dân cứu nước thì hay tin cha mình ốm nặng, Nguyễn Thượng Hiền đành gạt mọi công việc cá nhân để về quê phụng dưỡng cha già. Rồi khi chịu tang bố tròn 100 ngày xong xuôi mọi nhẽ Nguyễn Thượng Hiền mới tiếp bước ra đi trên “chặng đường cách mạng” của mình cùng các đồng chí của mình.
Câu chuyện hiếu trung lại đầy tín nghĩa của Cụ Nguyễn Thượng Hiền còn được lớp cháu con bảo ban nhau gìn giữ và noi theo như một “truyền thống gia đình”. Chẳng rõ chàng khóa sinh trẻ tuổi tài cao Nguyễn Thượng Hiền và cô tiểu thư đài các Tôn Nữ Thị Ẩn, ái nữ của quan Đại thần Tôn Thất Thuyết gặp nhau và hứa hẹn với nhau từ khi nào. Hai người hẹn sau khi Nguyễn Thượng Hiền đỗ Hoàng giáp thì sẽ kết hôn.
Trong khi đó Hiệp biện đại học sĩ Nguyễn Thượng Phiên lại đã “chuẩn bị” trước một cuộc hôn nhân cho Nguyễn Thượng Hiền. Cụ Phiên đã ngầm “giao ước” với gia đình Thượng thứ Tôn Thất Phan để đón tiểu thư Tôn Nữ Thị Dậu về làm người “nâng khăn sửa áo” cho Nguyễn Thượng Hiền.
Một bên là tình một bên là nghĩa thật khó rành rẽ.Thời điểm này cuộc dấy binh đánh Pháp trong kinh thành Huế của Đại thần Tôn Thất Thuyết đã thất bại. Nếu Nguyễn Thượng Hiền bỏ tiểu thư tên Ẩn để lấy tiểu thư tên Dậu thì là người phụ tình với người mình yêu mà hơn nữa lúc này tiểu thư tên Ẩn đang ở trong cảnh gia đình thất thế.
Mà bỏ tiểu thư tên Dậu để cưới tiểu thư tên Ẩn thì lại làm điều trái với ý cha, là trái với luân lý phong kiến đương thời. Nguyễn Thượng Hiền đã khéo léo cưới cả hai tiểu thư cùng một lúc và “coi” Tôn Nữ Thị Ẩn là vợ cả.
Chuyện người xưa sang chuyện thời nay, trước khi câu chuyện với chúng tôi kết thúc ông Hùng lấy ra một cuốn sách dầy và cẩn thận lau bụi, đó là cuốn “Nguyễn Thượng Hiền tuyển tập thơ văn” do phó giáo sư, tiến sĩ sử học Chương Thâu sưu tầm và biên soạn.
Ông Hùng nói “Ông nội tôi quý sách lắm. Sinh thời cụ dạy“Sách như người thày vậy”, chúng tôi nhớ lời cụ nên noi theo cụ mà giữ gìn những cuốn sách cụ để lại, mà bảo nhau gắng nối “nghiệp làm thày” để trước là gia đình dòng họ hiển vinh và sau là giúp làng giúp xóm”.
Ông Hùng nói vậy xem ra có nghĩa bởi chính ông và người em ruột của ông là ông Nguyễn Thượng Võ đều là giáo viên nghỉ hưu. Ông Hùng dạy toán ngay Trường cấp 3 Ứng Hòa A còn ông Võ dạy toán ở Trường Hà Nội – Amterdam. Người con gái của ông Hùng là cô Nguyễn Minh Hiếu hiện là giáo viên dạy tiếng Nhật có khá đông học trò đến lớp.
Tạm biệt làng Bặt xưa chúng tôi mang trong lòng sự thán phục về một dòng họ nổi danh khoa bảng và có truyền thống làm thày.Thán phục cụ Hoàng giáp Nguyễn Thượng Hiền chí nhân chí nghĩa.Cụ tuy mất nơi xứ người nhưng “Con người của cụ còn tồn trong nước, những vần thơ của cụ còn mãi ở trong dân”.
Cụ Nguyễn Thượng Hiền đã để lại một sự nghiệp văn học đa dạng 4 tập thơ hơn với 600 bài thơ được viết bằng chứ Hán và chữ Nôm (Đáng chú ý là tập Nam chi tập gồm 3 quyển Thượng, Trung và Hạ gồm những bài thơ viết trong quãng thời gian từ 1907 đến 1919 và được xuất bản năm 1925 tại Trung Quốc, thời kỳ cụ vì bất đắc chí sau khi phong trào Quang phục hội bị thất bại mà sang bên đó xuống tóc đi tu nhằm bảo tròn khí tiết) và 1 tập văn xuôi có tên là Hát đông thư dị. |
Nguyễn Trọng Văn
Có thể bạn quan tâm
Nên xem
10 sự kiện nổi bật của ngành khoa học và công nghệ năm 2024
Về nơi "xứ sở nhà thờ" mùa Giáng sinh
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hoạt động của Mặt trận theo phương châm hướng về cơ sở
Ba cựu Phó Giám đốc sở hầu tòa trong vụ "chuyến bay giải cứu" giai đoạn 2
97 đề tài tham dự Cuộc thi Khoa học, kỹ thuật cấp Thành phố dành cho học sinh trung học
Công đoàn ngành Xây dựng Hà Nội lên kế hoạch chăm lo cho người lao động dịp Tết Nguyên đán
“Quả ngọt” sau hàng năm trời chữa nuốt nghẹn không rõ nguyên nhân
Tin khác
Tạo điều kiện để trẻ em khiếm thị tiếp cận công nghệ
Cộng đồng 22/12/2024 06:53
Nhân lên niềm tự hào về truyền thống lịch sử vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng
Cộng đồng 21/12/2024 11:47
Quận Thanh Xuân biểu dương cán bộ làm công tác dân số
Xã hội 21/12/2024 10:19
Ra mắt tính năng nhận diện “Ứng dụng chính thức của Chính phủ” trên Google Play
Xã hội 20/12/2024 12:24
Tập huấn kỹ năng truyền thông về sàng lọc trước sinh, sơ sinh cho cộng tác viên dân số
Xã hội 20/12/2024 06:53
Tiếp nhận hơn 107 tỷ đồng dành cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn trong năm 2025
Cộng đồng 19/12/2024 23:11
Quận Thanh Xuân hưởng ứng Tháng hành động Quốc gia về dân số
Xã hội 19/12/2024 20:52
Xuân đẹp nhất khi còn bên bố mẹ
Cộng đồng 19/12/2024 17:42
Độc đáo nghề làm hoa tre
Cộng đồng 19/12/2024 16:30
Phát động chiến dịch “Những mùa xuân nguyên vẹn”
Cộng đồng 19/12/2024 13:21