![]() |
Hơn 10 năm kể từ khi Nghị quyết số 33-NQ/TW (9/6/2014) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam được ban hành, câu khẳng định "văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng" đã dần được chứng minh qua thực tiễn phát triển của đất nước. Đặc biệt ấn tượng là tư duy "vì Nhân dân" - đặt hạnh phúc, phẩm giá và sự phát triển toàn diện của con người làm trung tâm - như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong mọi chủ trương, chính sách về văn hóa. Hà Nội, với vai trò đầu tàu, đang nỗ lực biến những tư tưởng lớn đó thành hiện thực cụ thể: từ xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, đến khơi dậy sức sáng tạo trong Nhân dân, từ gìn giữ bản sắc truyền thống đến hội nhập hiện đại một cách chủ động. Nhóm phóng viên Báo Lao động Thủ đô đã có cuộc trò chuyện với PGS.TS Bùi Hoài Sơn, Ủy viên Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội xoay quanh vấn đề này.
- Phóng viên: Với kinh nghiệm nghiên cứu lâu năm về lĩnh vực văn hóa và văn hóa Thủ đô, ông đánh giá như thế nào về mối quan hệ hai chiều khi Đảng ta khẳng định "xây dựng văn hóa, con người Việt Nam phải gắn liền với xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh"?
PGS.TS Bùi Hoài Sơn: Đúng như Đảng ta đã khẳng định, mối quan hệ giữa xây dựng văn hóa, con người Việt Nam và xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là mối quan hệ hai chiều, hữu cơ và không thể tách rời. Văn hóa không chỉ là kết quả của quá trình lãnh đạo đúng đắn của Đảng mà còn là nền tảng tinh thần, là “vòng kiểm định giá trị” cho chính bản thân Đảng. Một Đảng trong sạch, vững mạnh phải được nuôi dưỡng bởi đời sống văn hóa lành mạnh; ngược lại, một nền văn hóa phát triển, nhân văn và tiến bộ chỉ có thể hình thành trong môi trường chính trị - xã hội do một Đảng tiên phong, đạo đức, trí tuệ dẫn dắt.
Nếu nói theo cách hình tượng, thì văn hóa chính là “linh hồn” của công tác xây dựng Đảng, còn xây dựng Đảng lại là “thể xác” để linh hồn ấy có thể tồn tại và tỏa sáng trong đời sống xã hội. Khi Đảng ta coi trọng đạo đức, lối sống, nêu gương, thì đó cũng chính là thực hành văn hóa chính trị. Khi văn hóa trong Đảng được đề cao, thì năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và niềm tin của Nhân dân đối với Đảng càng được củng cố.
Với văn hóa Thủ đô, tôi nhận thấy Hà Nội chính là nơi thể hiện rõ nhất mối quan hệ hai chiều này. Một thành phố muốn giữ gìn “hồn cốt ngàn năm” mà vẫn vươn mình hiện đại, nhất thiết phải dựa trên nền tảng đạo đức, kỷ cương, văn hóa ứng xử của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Khi người lãnh đạo biết lấy văn hóa làm gốc, lấy Nhân dân làm trung tâm, thì văn hóa ấy lan tỏa trong từng khu dân cư, từng con phố, từng hành vi nhỏ nhất của người Hà Nội. Ngược lại, chính sự thanh lịch, văn minh, trách nhiệm công dân của người dân Thủ đô cũng là tấm gương phản chiếu cho năng lực lãnh đạo và phẩm chất văn hóa của Đảng bộ Thành phố.
Như vậy, xây dựng Đảng bằng văn hóa và xây dựng văn hóa trong Đảng là hai mặt của một quá trình, cùng hướng tới mục tiêu chung: kiến tạo một xã hội phát triển bền vững, nơi con người - với nhân cách, phẩm giá và lòng nhân ái - là trung tâm của mọi giá trị.
![]() |
- Tại Đại hội XIII, Đảng tiếp tục nhấn mạnh "văn hóa phải thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước". Sau hơn 10 năm thực hiện Nghị quyết 33, ông đánh giá vai trò và thành tựu của ngành văn hoá ra sao?
Sau hơn 10 năm thực hiện Nghị quyết 33-NQ/TW, có thể nói văn hóa Việt Nam đã bước vào một giai đoạn phát triển mới - giai đoạn mà nhận thức, tư duy và hành động về văn hóa được chuyển hóa mạnh mẽ từ tầm nhìn chiến lược của Đảng sang những kết quả cụ thể trong đời sống xã hội. Nghị quyết 33 đã tạo ra một nền tảng chính trị - tư tưởng vững chắc, giúp toàn hệ thống chính trị nhận rõ rằng phát triển văn hóa không chỉ là nhiệm vụ bổ trợ cho kinh tế, mà là nguồn lực nội sinh, động lực tinh thần và phương thức phát triển của quốc gia.
Trước hết, chúng ta đã thấy vai trò của văn hóa được nâng lên tầm quốc sách. Văn hóa không còn bị xem như “vùng trũng” trong phát triển, mà trở thành trụ cột bên cạnh kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường. Nhiều chính sách, chiến lược đã cụ thể hóa tinh thần của Nghị quyết 33: Từ Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030, Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, đến gần đây là Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025 - 2035. Đây là những dấu mốc quan trọng cho thấy văn hóa đã thực sự bước vào quỹ đạo phát triển bền vững và có đầu tư tương xứng.
![]() |
Thứ hai, Nghị quyết 33 đã tạo nên một chuyển biến căn bản về cách tiếp cận con người trong phát triển. Thay vì chỉ chú trọng “tăng trưởng” vật chất, Đảng ta khẳng định phát triển phải hướng đến hạnh phúc, phẩm giá và năng lực sáng tạo của con người Việt Nam. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, điều này càng có ý nghĩa khi văn hóa không chỉ là tấm khiên bảo vệ bản sắc, mà còn là cánh cửa mở ra thế giới, giúp Việt Nam hội nhập mà không hòa tan, sáng tạo mà vẫn giữ được gốc rễ.
Thứ ba, có thể nói, văn hóa đang trở thành động lực lan tỏa trong nhiều lĩnh vực khác. Trong kinh tế, tinh thần đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp và phát triển công nghiệp văn hóa đang tạo ra giá trị gia tăng mới. Trong chính trị, văn hóa Đảng - văn hóa công vụ, văn hóa nêu gương đang được xem là nền tảng cho niềm tin và sự đồng thuận xã hội. Trong xã hội, đời sống văn hóa cơ sở, phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, các thiết chế văn hóa, bảo tàng, di sản, nghệ thuật… đều đang hồi sinh và được số hóa mạnh mẽ.
Nhìn lại hơn 10 năm, dù còn những hạn chế như đầu tư chưa đồng đều, cơ chế chính sách chưa thật sự linh hoạt, nhưng điều đáng quý nhất là chúng ta đã khơi dậy được tinh thần văn hóa trong phát triển - coi văn hóa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt mọi lĩnh vực đời sống quốc gia. Đó là bước tiến dài trên hành trình hiện thực hóa khát vọng mà Đại hội XIII đã nêu: để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước, vì con người, do con người và phục vụ con người.
![]() |
- "Đảng xác định" mục tiêu phát triển văn hóa là vì hạnh phúc của Nhân dân". Theo ông, 'hạnh phúc' trong bối cảnh văn hóa được hiểu như thế nào? Có tiêu chí nào để đo lường hạnh phúc về văn hóa không? Trong bối cảnh kinh tế phát triển nhanh nhưng nhiều người vẫn cảm thấy 'khó hạnh phúc', vai trò của văn hóa trong việc mang lại hạnh phúc thực sự cho người dân Hà Nội là gì?
Đúng vậy, khi Nghị quyết 33-NQ/TW khẳng định “con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển”, đó không chỉ là sự kế thừa mà còn là sự phát triển sâu sắc tư tưởng “lấy dân làm gốc” trong triết lý chính trị truyền thống và tư tưởng “vì con người” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong mọi giai đoạn cách mạng, Đảng ta luôn xác định hạnh phúc của Nhân dân là mục tiêu tối thượng. Tuy nhiên, ở Nghị quyết 33, tư tưởng ấy đã được mở rộng trong tầm nhìn hiện đại - con người không chỉ là đối tượng được hưởng thụ thành quả phát triển, mà còn là chủ thể sáng tạo và kiến tạo văn hóa.
“Hạnh phúc” trong bối cảnh văn hóa, theo tôi, không thể chỉ hiểu đơn giản là trạng thái thỏa mãn vật chất hay cảm xúc cá nhân. Hạnh phúc văn hóa là sự hòa hợp giữa các giá trị vật chất và tinh thần, giữa tự do sáng tạo và trách nhiệm xã hội, giữa bản sắc cá nhân và bản sắc cộng đồng. Khi một người dân cảm thấy mình được tôn trọng, được sống trong môi trường công bằng, nhân văn, được tự do thể hiện và sáng tạo trong khuôn khổ đạo lý, thì đó chính là hạnh phúc văn hóa.
![]() |
Đo lường hạnh phúc văn hóa không dễ, nhưng hoàn toàn có thể thông qua những chỉ báo của đời sống tinh thần: Mức độ tham gia hoạt động văn hóa - nghệ thuật, khả năng tiếp cận di sản, không gian sáng tạo, sự tự hào và gắn bó với cộng đồng, chỉ số tin cậy xã hội, hay cảm nhận về sự công bằng, văn minh nơi mình sinh sống. Nhiều quốc gia như Bhutan, Pháp, Hàn Quốc đã đưa các chỉ số hạnh phúc, chỉ số văn hóa vào chiến lược phát triển quốc gia, coi đó là thước đo của sự tiến bộ xã hội - không chỉ bằng GDP mà bằng “GNH - Gross National Happiness”, tức tổng hạnh phúc quốc gia.
Tại Hà Nội, nơi hội tụ tinh hoa văn hóa dân tộc, tôi cho rằng văn hóa chính là con đường ngắn nhất để mang lại hạnh phúc thật sự cho con người. Khi không gian sống được quy hoạch nhân văn, khi di sản được bảo tồn gắn với sinh kế cộng đồng, khi mỗi công dân Thủ đô thấy tự hào và trách nhiệm trong việc giữ gìn sự thanh lịch, văn minh, thì đó là biểu hiện của một thành phố hạnh phúc. Hạnh phúc ấy không ồn ào mà lắng đọng, không xa xôi mà hiện hữu trong từng góc phố, từng hành vi ứng xử, từng nụ cười trên đường.
Trong bối cảnh kinh tế phát triển nhanh nhưng đời sống tinh thần nhiều khi bị xô lệch, văn hóa chính là “liều thuốc cân bằng” giúp con người tìm lại sự an nhiên, gắn bó, và ý nghĩa tồn tại. Xây dựng văn hóa Thủ đô hôm nay, vì thế, không chỉ là dựng xây những công trình hay lễ hội, mà là kiến tạo môi trường sống hạnh phúc, nơi mỗi người dân cảm nhận được mình là một phần của cộng đồng nhân văn - một Hà Nội đáng sống, đáng yêu và đáng tự hào.
|
- Bước vào nhiệm kỳ mới, Đảng bộ Hà Nội cần tập trung lãnh đạo những vấn đề trọng tâm nào trong lĩnh vực văn hóa để xứng tầm “Thành phố vì hòa bình - Thủ đô nghìn năm văn hiến”?
Bước vào nhiệm kỳ mới, tôi cho rằng Đảng bộ Hà Nội cần xác định rõ ràng hơn vai trò của văn hóa như một trụ cột phát triển ngang hàng với kinh tế, chính trị và xã hội, để Thủ đô thật sự xứng đáng với danh hiệu “Thành phố vì hòa bình - Thủ đô nghìn năm văn hiến, hiện đại và sáng tạo”. Muốn vậy, công tác lãnh đạo, chỉ đạo về văn hóa phải được đặt ở tầm chiến lược phát triển con người và bản sắc, chứ không chỉ dừng lại ở hoạt động phong trào hay hành chính sự vụ.
Trước hết, Hà Nội cần xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, chuẩn mực, nhân văn và sáng tạo, lấy con người làm trung tâm, làm chủ thể và là mục tiêu hướng đến. Đó là môi trường nơi đạo đức, kỷ cương, trách nhiệm và lòng nhân ái được tôn trọng; nơi công dân cảm thấy tự hào khi sống ở Hà Nội và có ý thức gìn giữ bản sắc riêng của Thủ đô. Cùng với đó là việc phát huy sức mạnh văn hóa trong từng lĩnh vực, từ quy hoạch đô thị, phát triển kinh tế sáng tạo, đến giáo dục, truyền thông và quản lý xã hội.
Thứ hai, cần coi công nghiệp văn hóa và sáng tạo là động lực phát triển mới của Thủ đô. Hà Nội đã được UNESCO công nhận là Thành phố sáng tạo trong lĩnh vực thiết kế - điều này đặt ra trách nhiệm lớn lao: Biến sáng tạo thành giá trị sống, thành sinh kế và thành thương hiệu. Muốn làm được điều đó, cần đầu tư mạnh mẽ cho hạ tầng sáng tạo, hỗ trợ các trung tâm thiết kế, nghệ thuật, startup văn hóa, đồng thời kết nối khu vực công - tư - cộng đồng để hình thành hệ sinh thái sáng tạo toàn diện, gắn văn hóa với công nghệ, du lịch và giáo dục.
![]() |
Thứ ba, cần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ văn hóa, từ cấp Thành phố đến cơ sở. Bởi không thể có một Thủ đô văn hiến nếu người làm công tác văn hóa không thấm đẫm tinh thần văn hóa. Cán bộ văn hóa phải vừa có năng lực chuyên môn, vừa có tâm thế phục vụ, sáng tạo và dám đổi mới trong cách làm. Cùng với đó là phát huy vai trò của văn nghệ sĩ, trí thức, doanh nhân sáng tạo, những người có khả năng lan tỏa giá trị văn hóa trong đời sống xã hội.
Cuối cùng, Hà Nội cần tiếp tục xây dựng thương hiệu văn hóa Thủ đô, không chỉ qua di sản vật thể, mà còn qua phong cách sống, ứng xử, và tinh thần công dân. Một Thủ đô văn minh, hiếu khách, tôn trọng quá khứ nhưng luôn hướng tới tương lai, nơi mỗi người dân là một “đại sứ văn hóa” - đó mới là thước đo chân thực nhất của sức mạnh mềm và vị thế của Hà Nội.
Nói cách khác, xây dựng văn hóa Thủ đô trong giai đoạn mới chính là xây dựng sức mạnh nội sinh của đất nước, là tạo nên không gian để mỗi con người được sống hạnh phúc, sáng tạo, được cống hiến và tự hào về nơi mình thuộc về. Khi văn hóa thật sự trở thành “linh hồn” của sự phát triển, Hà Nội sẽ không chỉ là trung tâm chính trị - hành chính, mà còn là trung tâm lan tỏa niềm tin, bản sắc và khát vọng Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình.
- Xin cảm ơn ông về cuộc trao đổi!
![]() |
---------------------
Đinh Luyện - Bùi Phương - Phạm Thắng